Truy cập

Hôm nay:
1
Hôm qua:
0
Tuần này:
1
Tháng này:
0
Tất cả:
175117

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ: Sức mạnh Việt Nam, tầm vóc thời đại.

Ngày 06/05/2024 00:00:00

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ: Sức mạnh Việt Nam, tầm vóc thời đại.

 

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ: Sức mạnh Việt Nam, tầm vóc thời đại.

 

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ: Sức mạnh Việt Nam, tầm vóc thời đại.

 
dbp- bai 2.jpg
Khẳng định tầm vóc vĩ đại của chiến thắng Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Điện Biên Phủ như là một cái mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử.
Nó ghi rõ nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống dốc và tan rã; đồng thời, phong trào giải phóng dân tộc khắp thế giới đang lên cao đến thắng lợi hoàn toàn”! Chiến thắng vang dội ấy không chỉ là “tấm gương phản chiếu” sức mạnh vô địch của dân tộc Việt Nam; mà còn cho thấy tầm vóc và giá trị thời đại của một trong những sự kiện đã làm rúng động lịch sử nhân loại trong thế kỷ XX.
Với sự hiện diện của tập đoàn cứ điểm hùng mạnh Điện Biên Phủ, giới cầm quyền Pháp - Mỹ đã “đặt cược” ở cửa trên, rằng “Pháp chắc thắng lợi ở Điện Biên Phủ”. Ở chiều ngược lại, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích sâu sắc thế chiến lược giữa ta và địch trên chiến trường; đánh giá đúng lực lượng đối sánh giữa hai bên và nhận định chính xác thời cơ giành thắng lợi quyết định cho cuộc kháng chiến lâu dài đã đến. Đồng thời, xem Điện Biên Phủ là điểm quyết chiến chiến lược, có tính quyết định đến cục diện cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Với quyết tâm “đem toàn lực chi viện chiến dịch Điện Biên Phủ và nhất là làm mọi việc cần thiết để giành toàn thắng cho chiến dịch này”, cả dân tộc Việt Nam đã cùng ra trận, tạo nên khí thế hào hùng và tinh thần quyết chiến, quyết thắng chưa từng có. Vượt qua vô vàn khó khăn, gian khổ để chuẩn bị nhân lực, vật lực cho chiến trường, ngày 13/3/1954, quân ta nổ súng tấn công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Từ ngày 13/3 đến ngày 17/3/1954, quân ta đã tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam và Độc Lập, bức hàng cứ điểm Bản Kéo, phá vỡ hệ thống phòng ngự trên hướng Bắc và Đông Bắc; đồng thời, mở toang cánh cửa tiến xuống vùng lòng chảo và khu trung tâm. Hai tiểu đoàn tinh nhuệ nhất của địch bị tiêu diệt gọn, một tiểu đoàn khác và 3 đại đội ngụy Thái tan rã. Một số lượng lớn pháo 105 ly và pháo cối 120 ly của địch bị ta phá hủy hoàn toàn, hầu hết các máy bay chiến đấu trong vùng lòng chảo đều bị quân ta tiêu diệt.
Tiếp đó, từ ngày 30/3 đến ngày 30/4/1954, quân ta đồng loạt tiến công các cứ điểm phía Đông phân khu trung tâm. Ta đã tiêu diệt khoảng 5.000 tên địch, trong số đó gồm 4 tiểu đoàn và 9 đại đội (chiếm khoảng 1/2 tổng số quân địch ở phân khu Bắc và phân khu trung tâm). Đồng thời, khống chế được phần lớn điểm cao phía Đông, phát triển trận địa tới sát sân bay, thắt chặt vòng vây, chia cắt, khống chế các khu vực còn lại trong tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, kiểm soát sân bay Mường Thanh, hạn chế tiếp viện của địch cho tập đoàn cứ điểm.
Thừa thắng xông lên, từ ngày 1/5 đến ngày 7/5/1954, quân ta đánh chiếm các cứ điểm còn lại ở phía Đông, diệt một số cứ điểm phía Tây và mở đợt tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. 17 giờ ngày 6/5/1954, pháo binh và hỏa tiễn của ta bắn dữ dội vào các cứ điểm, mở đường cho bộ binh tiến công. Tại Đồi A1, sau khi cho nổ gần 1 tấn bộc phá tiêu diệt hầm ngầm địch, bộ đội ta chia làm nhiều mũi, theo các đường hào đánh lên đỉnh đồi. 17 giờ 30 phút ngày 7/5/1954, tướng Đờ Cát cùng toàn bộ Bộ Tham mưu của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị bắt sống. Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng. Ta tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 xe và toàn bộ vũ khí, kho tàng, quân trang, quân dụng của địch.
Từ chỗ thách thức “Võ Nguyên Giáp có giỏi thì đến đánh Điện Biên Phủ”; hay “Việt Minh sẽ bị đánh tan ở Điện Biên Phủ”, đến việc chấp nhận “Điện Biên Phủ là cuộc thất bại to lớn nhất từ ngày Pháp đầu hàng Đức (1940). Quân viễn chinh Pháp đã bị chặt mất đầu”, cái kết dành cho mưu đồ toan tính của thực dân Pháp đã được trả lời một cách sòng phẳng và đanh thép trên chiến trường Điện Biên Phủ. Chiến thắng Điện Biên Phủ là bản anh hùng ca của cuộc chiến tranh Nhân dân thần kỳ, đã “được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỷ XX và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc”.
Nguyên nhân chiến thắng từ phía ta, hay nguyên nhân thất bại phía địch đã được phân tích, làm rõ. Và ở đó, không thiếu những cái nhìn công tâm, khách quan của những người đứng bên kia chiến tuyến. Như Đại tướng Mác-xen Bi-gia, người từng có mặt tại chiến trường Điện Biên Phủ năm 1954, đã thú nhận: “Chúng ta đã sử dụng binh lính của chúng ta, nhưng đối phương đã chiến đấu bằng một cuộc chiến tranh tổng lực có mọi điều: Kỷ luật - chính trị - kinh tế - tuyên truyền đều được huy động. Đó là ý kiến tôi, cũng là lý do về sự thất bại của Pháp, cuối cùng cũng có thể gọi là thất bại của Mỹ”. Đồng thời, ông cũng khẳng định, Quân đội Nhân dân Việt Nam là “đạo bộ binh mạnh nhất thế giới”: “Khởi hành với vũ khí như là khẩu súng săn (...), họ (bộ đội ta - PV) trở nên một đơn vị bộ binh kiệt xuất và được huấn luyện để đánh bại chúng ta. Bây giờ chúng ta không còn gì cả, chúng ta đã ở xa nước Pháp, nhưng phải nhận rằng họ cũng đánh bại cả người Mỹ. Bởi vậy họ thật là kiệt xuất...”.
Tầm vóc thời đại.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã được các dân tộc bị áp bức trên thế giới đón nhận như “một sự đoạn tuyệt, báo hiệu nhiều cuộc tranh đấu khác”. Nhà lãnh tụ quốc gia An-giê-ri, Ferhat Abbas, viết: “Điện Biên Phủ không phải đã chỉ là một chiến thắng quân sự. Trận chiến này vẫn là một biểu tượng. Đó là trận Valmy của các dân tộc thuộc địa. Đó là sự khẳng định của con người châu Á và châu Phi đối diện với con người châu Âu. Đó là sự xác nhận nhân quyền trên quy mô thế giới. Tại Điện Biên Phủ, Pháp đã mất đi cách bào chữa duy nhất cho sự hiện diện của mình, tức là quyền của kẻ mạnh”. Hay khi trận chiến đã lùi xa 20 năm, Jean Pouget - nguyên sĩ quan trong đoàn quân viễn chinh Pháp, dẫu cay đắng nhưng vẫn sáng suốt thừa nhận: “Điện Biên Phủ thất thủ đánh dấu sự cáo chung của thời kỳ thực dân và mở ra kỷ nguyên độc lập của thế giới thứ ba. Ngày nay, tại châu Á, châu Phi hay châu Mỹ, không một cuộc nổi dậy, đối kháng hay khởi nghĩa nào mà không dựa theo chiến thắng của tướng Giáp. Điện Biên Phủ đã trở thành ngày 14 tháng 7 của công cuộc giải thực”.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là đỉnh cao của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tạo cơ sở căn bản và quyết định cho việc đi đến ký kết Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam. Chiến thắng vĩ đại này đã đánh dấu chấm hết cho sự ngoan cố, hiếu chiến của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ trên bàn Hội nghị, buộc Chính phủ Pháp cùng các bên tham dự phải ngồi vào bàn nghị sự, ký Hiệp định Giơnevơ (trừ Mỹ) đình chỉ chiến sự ở Việt Nam ngày 21/7/1954. Đây cũng là chiến thắng quyết định thắng lợi của ta trên mặt trận ngoại giao, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp ở Việt Nam.
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đã tạo ra những thay đổi căn bản trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, ngoại giao... cho cách mạng Việt Nam. Đồng thời, mở đầu một giai đoạn mới: miền Bắc tiến lên CNXH, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ Nhân dân. Những thành tựu xây dựng CNXH cũng như những đóng góp của hậu phương miền Bắc đối với tiền tuyến lớn miền Nam đã củng cố niềm tin của Nhân dân hai miền vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến. Để rồi, phát huy tinh thần “độc lập, tự chủ, quyết chiến, quyết thắng” của Điện Biên Phủ và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta đã giành được nhiều thắng lợi to lớn, đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ và đội quân chư hầu, giải phóng và thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên CNXH.
Chiến thắng Điện Biên Phủ khẳng định đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo của Đảng. Chiến thắng vĩ đại này đã chứng minh chân lý: Trong thời đại ngày nay, một nước nhỏ, kinh tế chậm phát triển nếu có một Đảng mác xít chân chính lãnh đạo với đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, phát huy được sức mạnh toàn dân tộc, được Nhân dân thế giới đồng tình, ủng hộ thì nhất định đánh thắng mọi kẻ thù, dù có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh hơn gấp nhiều lần. Đồng thời, chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ cũng cho thấy sự trưởng thành vượt bậc của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Từ 34 chiến sĩ với vũ khí thô sơ năm 1944, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân đội ta đã không ngừng lớn mạnh, càng đánh càng trưởng thành. Đây là cơ sở để sau này toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, vững tin, dám đánh, biết đánh, quyết đánh và đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã chấm dứt sự đô hộ của chủ nghĩa thực dân Pháp ở ba nước Đông Dương, mở đầu quá trình sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới. Chiến thắng vĩ đại này đã thức tỉnh và cổ vũ các dân tộc bị áp bức trên thế giới vùng lên đấu tranh giành độc lập, tự do; buộc chính quyền Pháp phải chấm dứt chính sách cai trị thực dân, tiến hành trao trả độc lập cho nhiều nước ở châu Á và châu Phi. Đồng thời, xem xét lại vị thế và các chính sách của mình đối với các nước vốn là thuộc địa cũ. Việt Nam là nước tiên phong, là biểu tượng sáng ngời trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh đổ chủ nghĩa thực dân cũ, mở ra trang sử mới cho nhân loại, góp phần làm thay đổi cục diện thế giới.
Nguồn : Sở Thông tin truyền thông Thanh Hóa.

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ: Sức mạnh Việt Nam, tầm vóc thời đại.

Đăng lúc: 06/05/2024 00:00:00 (GMT+7)

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ: Sức mạnh Việt Nam, tầm vóc thời đại.

 

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ: Sức mạnh Việt Nam, tầm vóc thời đại.

 

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ: Sức mạnh Việt Nam, tầm vóc thời đại.

 
dbp- bai 2.jpg
Khẳng định tầm vóc vĩ đại của chiến thắng Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Điện Biên Phủ như là một cái mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử.
Nó ghi rõ nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống dốc và tan rã; đồng thời, phong trào giải phóng dân tộc khắp thế giới đang lên cao đến thắng lợi hoàn toàn”! Chiến thắng vang dội ấy không chỉ là “tấm gương phản chiếu” sức mạnh vô địch của dân tộc Việt Nam; mà còn cho thấy tầm vóc và giá trị thời đại của một trong những sự kiện đã làm rúng động lịch sử nhân loại trong thế kỷ XX.
Với sự hiện diện của tập đoàn cứ điểm hùng mạnh Điện Biên Phủ, giới cầm quyền Pháp - Mỹ đã “đặt cược” ở cửa trên, rằng “Pháp chắc thắng lợi ở Điện Biên Phủ”. Ở chiều ngược lại, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích sâu sắc thế chiến lược giữa ta và địch trên chiến trường; đánh giá đúng lực lượng đối sánh giữa hai bên và nhận định chính xác thời cơ giành thắng lợi quyết định cho cuộc kháng chiến lâu dài đã đến. Đồng thời, xem Điện Biên Phủ là điểm quyết chiến chiến lược, có tính quyết định đến cục diện cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Với quyết tâm “đem toàn lực chi viện chiến dịch Điện Biên Phủ và nhất là làm mọi việc cần thiết để giành toàn thắng cho chiến dịch này”, cả dân tộc Việt Nam đã cùng ra trận, tạo nên khí thế hào hùng và tinh thần quyết chiến, quyết thắng chưa từng có. Vượt qua vô vàn khó khăn, gian khổ để chuẩn bị nhân lực, vật lực cho chiến trường, ngày 13/3/1954, quân ta nổ súng tấn công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Từ ngày 13/3 đến ngày 17/3/1954, quân ta đã tiêu diệt gọn cứ điểm Him Lam và Độc Lập, bức hàng cứ điểm Bản Kéo, phá vỡ hệ thống phòng ngự trên hướng Bắc và Đông Bắc; đồng thời, mở toang cánh cửa tiến xuống vùng lòng chảo và khu trung tâm. Hai tiểu đoàn tinh nhuệ nhất của địch bị tiêu diệt gọn, một tiểu đoàn khác và 3 đại đội ngụy Thái tan rã. Một số lượng lớn pháo 105 ly và pháo cối 120 ly của địch bị ta phá hủy hoàn toàn, hầu hết các máy bay chiến đấu trong vùng lòng chảo đều bị quân ta tiêu diệt.
Tiếp đó, từ ngày 30/3 đến ngày 30/4/1954, quân ta đồng loạt tiến công các cứ điểm phía Đông phân khu trung tâm. Ta đã tiêu diệt khoảng 5.000 tên địch, trong số đó gồm 4 tiểu đoàn và 9 đại đội (chiếm khoảng 1/2 tổng số quân địch ở phân khu Bắc và phân khu trung tâm). Đồng thời, khống chế được phần lớn điểm cao phía Đông, phát triển trận địa tới sát sân bay, thắt chặt vòng vây, chia cắt, khống chế các khu vực còn lại trong tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, kiểm soát sân bay Mường Thanh, hạn chế tiếp viện của địch cho tập đoàn cứ điểm.
Thừa thắng xông lên, từ ngày 1/5 đến ngày 7/5/1954, quân ta đánh chiếm các cứ điểm còn lại ở phía Đông, diệt một số cứ điểm phía Tây và mở đợt tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. 17 giờ ngày 6/5/1954, pháo binh và hỏa tiễn của ta bắn dữ dội vào các cứ điểm, mở đường cho bộ binh tiến công. Tại Đồi A1, sau khi cho nổ gần 1 tấn bộc phá tiêu diệt hầm ngầm địch, bộ đội ta chia làm nhiều mũi, theo các đường hào đánh lên đỉnh đồi. 17 giờ 30 phút ngày 7/5/1954, tướng Đờ Cát cùng toàn bộ Bộ Tham mưu của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị bắt sống. Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng. Ta tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 xe và toàn bộ vũ khí, kho tàng, quân trang, quân dụng của địch.
Từ chỗ thách thức “Võ Nguyên Giáp có giỏi thì đến đánh Điện Biên Phủ”; hay “Việt Minh sẽ bị đánh tan ở Điện Biên Phủ”, đến việc chấp nhận “Điện Biên Phủ là cuộc thất bại to lớn nhất từ ngày Pháp đầu hàng Đức (1940). Quân viễn chinh Pháp đã bị chặt mất đầu”, cái kết dành cho mưu đồ toan tính của thực dân Pháp đã được trả lời một cách sòng phẳng và đanh thép trên chiến trường Điện Biên Phủ. Chiến thắng Điện Biên Phủ là bản anh hùng ca của cuộc chiến tranh Nhân dân thần kỳ, đã “được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỷ XX và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc”.
Nguyên nhân chiến thắng từ phía ta, hay nguyên nhân thất bại phía địch đã được phân tích, làm rõ. Và ở đó, không thiếu những cái nhìn công tâm, khách quan của những người đứng bên kia chiến tuyến. Như Đại tướng Mác-xen Bi-gia, người từng có mặt tại chiến trường Điện Biên Phủ năm 1954, đã thú nhận: “Chúng ta đã sử dụng binh lính của chúng ta, nhưng đối phương đã chiến đấu bằng một cuộc chiến tranh tổng lực có mọi điều: Kỷ luật - chính trị - kinh tế - tuyên truyền đều được huy động. Đó là ý kiến tôi, cũng là lý do về sự thất bại của Pháp, cuối cùng cũng có thể gọi là thất bại của Mỹ”. Đồng thời, ông cũng khẳng định, Quân đội Nhân dân Việt Nam là “đạo bộ binh mạnh nhất thế giới”: “Khởi hành với vũ khí như là khẩu súng săn (...), họ (bộ đội ta - PV) trở nên một đơn vị bộ binh kiệt xuất và được huấn luyện để đánh bại chúng ta. Bây giờ chúng ta không còn gì cả, chúng ta đã ở xa nước Pháp, nhưng phải nhận rằng họ cũng đánh bại cả người Mỹ. Bởi vậy họ thật là kiệt xuất...”.
Tầm vóc thời đại.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã được các dân tộc bị áp bức trên thế giới đón nhận như “một sự đoạn tuyệt, báo hiệu nhiều cuộc tranh đấu khác”. Nhà lãnh tụ quốc gia An-giê-ri, Ferhat Abbas, viết: “Điện Biên Phủ không phải đã chỉ là một chiến thắng quân sự. Trận chiến này vẫn là một biểu tượng. Đó là trận Valmy của các dân tộc thuộc địa. Đó là sự khẳng định của con người châu Á và châu Phi đối diện với con người châu Âu. Đó là sự xác nhận nhân quyền trên quy mô thế giới. Tại Điện Biên Phủ, Pháp đã mất đi cách bào chữa duy nhất cho sự hiện diện của mình, tức là quyền của kẻ mạnh”. Hay khi trận chiến đã lùi xa 20 năm, Jean Pouget - nguyên sĩ quan trong đoàn quân viễn chinh Pháp, dẫu cay đắng nhưng vẫn sáng suốt thừa nhận: “Điện Biên Phủ thất thủ đánh dấu sự cáo chung của thời kỳ thực dân và mở ra kỷ nguyên độc lập của thế giới thứ ba. Ngày nay, tại châu Á, châu Phi hay châu Mỹ, không một cuộc nổi dậy, đối kháng hay khởi nghĩa nào mà không dựa theo chiến thắng của tướng Giáp. Điện Biên Phủ đã trở thành ngày 14 tháng 7 của công cuộc giải thực”.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là đỉnh cao của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tạo cơ sở căn bản và quyết định cho việc đi đến ký kết Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam. Chiến thắng vĩ đại này đã đánh dấu chấm hết cho sự ngoan cố, hiếu chiến của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ trên bàn Hội nghị, buộc Chính phủ Pháp cùng các bên tham dự phải ngồi vào bàn nghị sự, ký Hiệp định Giơnevơ (trừ Mỹ) đình chỉ chiến sự ở Việt Nam ngày 21/7/1954. Đây cũng là chiến thắng quyết định thắng lợi của ta trên mặt trận ngoại giao, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp ở Việt Nam.
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đã tạo ra những thay đổi căn bản trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, ngoại giao... cho cách mạng Việt Nam. Đồng thời, mở đầu một giai đoạn mới: miền Bắc tiến lên CNXH, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ Nhân dân. Những thành tựu xây dựng CNXH cũng như những đóng góp của hậu phương miền Bắc đối với tiền tuyến lớn miền Nam đã củng cố niềm tin của Nhân dân hai miền vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến. Để rồi, phát huy tinh thần “độc lập, tự chủ, quyết chiến, quyết thắng” của Điện Biên Phủ và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta đã giành được nhiều thắng lợi to lớn, đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ và đội quân chư hầu, giải phóng và thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên CNXH.
Chiến thắng Điện Biên Phủ khẳng định đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo của Đảng. Chiến thắng vĩ đại này đã chứng minh chân lý: Trong thời đại ngày nay, một nước nhỏ, kinh tế chậm phát triển nếu có một Đảng mác xít chân chính lãnh đạo với đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, phát huy được sức mạnh toàn dân tộc, được Nhân dân thế giới đồng tình, ủng hộ thì nhất định đánh thắng mọi kẻ thù, dù có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh hơn gấp nhiều lần. Đồng thời, chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ cũng cho thấy sự trưởng thành vượt bậc của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Từ 34 chiến sĩ với vũ khí thô sơ năm 1944, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân đội ta đã không ngừng lớn mạnh, càng đánh càng trưởng thành. Đây là cơ sở để sau này toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, vững tin, dám đánh, biết đánh, quyết đánh và đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã chấm dứt sự đô hộ của chủ nghĩa thực dân Pháp ở ba nước Đông Dương, mở đầu quá trình sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới. Chiến thắng vĩ đại này đã thức tỉnh và cổ vũ các dân tộc bị áp bức trên thế giới vùng lên đấu tranh giành độc lập, tự do; buộc chính quyền Pháp phải chấm dứt chính sách cai trị thực dân, tiến hành trao trả độc lập cho nhiều nước ở châu Á và châu Phi. Đồng thời, xem xét lại vị thế và các chính sách của mình đối với các nước vốn là thuộc địa cũ. Việt Nam là nước tiên phong, là biểu tượng sáng ngời trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh đổ chủ nghĩa thực dân cũ, mở ra trang sử mới cho nhân loại, góp phần làm thay đổi cục diện thế giới.
Nguồn : Sở Thông tin truyền thông Thanh Hóa.
0 bình luận
(Bấm vào đây để nhận mã)